[Bài dịch]: Nguyên tắc kế toán (Phần 1)

Có những khái niệm và nguyên tắc chung chi phối lĩnh vực kế toán. Những nguyên tắc chung này - được nói đến như những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng - thiết lập nền tảng mà từ đó những luật lệ kế toán phức tạp, cụ thể và mang tính pháp chế nhiều hơn được hình thành.

Nguyên tắc kế toán

Có những khái niệm và nguyên tắc chung chi phối lĩnh vực kế toán. Những nguyên tắc chung này - được nói đến như những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng - thiết lập nền tảng mà từ đó những luật lệ kế toán phức tạp, cụ thể và mang tính pháp chế nhiều hơn được hình thành.

Giới thiệu các nguyên tắc kế toán

Có những khái niệm và nguyên tắc chung chi phối lĩnh vực kế toán. Những nguyên tắc chung này - được nói đến như những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng - thiết lập nền tảng mà từ đó những luật lệ kế toán phức tạp, cụ thể và mang tính pháp chế nhiều hơn được hình thành. Chẳng hạn, Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Tài chính ( FASB ) sử dụng những nguyên tắc kế toán cơ bản và có tính định hướng ấy làm sơ sở cho bộ quy tắc và chuẩn mực kế toán chi tiết và tổng thể của riêng họ.

Cụm từ “những nguyên tắc kế toán tổng quát được thừa nhận” (hoặc GAAP) bao hàm ba bộ quy tắc quan trọng: (1) những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng, (2) những chuẩn mực và quy tắc chi tiết do FASB và trước đó là Hội đồng xây dựng các Nguyên tắc kế toán (APB) ban hành, và (3) những phương thức theo ngành được thừa nhận rộng rãi.

Nếu một công ty đưa các báo cáo của mình ra công chúng, họ phải tuân thủ những nguyên tắc kế toán tổng quát được thừa nhận trong quá trình soạn thảo các báo cáo ấy. Ngoài ra, nếu cổ phiếu của công ty được giao dịch công khai, thì luật liên bang yêu cầu các báo cáo của công ty phải được các kế toán viên dịch vụ công độc lập kiểm tra. Cả ban quản trị công ty lẫn các kế toán viên độc lập phải xác nhận các báo cáo tài chính và những giải trình các báo cáo tài chính hữu quan đã được soạn thảo theo đúng quy định của GAAP.

GAAP vô cùng hữu ích bởi người ta cố gắng chuẩn hoá và sửa chữa các định nghĩa, giả thiết và phương pháp kế toán. Nhờ những nguyên tắc kế toán tổng quát được thừa nhận mà chúng ta có thể cho rằng các phương pháp dùng để soạn thảo các báo cáo tài chính của công ty có sự nhất quán từ năm này qua năm khác. Và mặc dù có thể còn tồn tại những khác biệt, chúng ta vẫn có khả năng đưa ra những kết luận tương đối đáng tin cậy khi đối chiếu công ty này với công ty khác, hoặc so sánh số liệu thống kê tài chính của công ty này với số liệu của công ty khác trong ngành. Theo thời gian, những nguyên tắc kế toán tổng quát được thừa nhận cũng trở nên phức tạp hơn bởi các giao dịch tài chính đã rắc rối hơn trước nhiều.

Những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng

Vì GAAP được dựa trên các nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng, nên chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn về GAAP nếu chúng ta nắm được những nguyên tắc kế toán đó. Bảng liệt kê dưới đây có 10 nguyên tắc kế toán quan trọng nhất và mang tính định hướng cùng với sự giải thích hết sức cô đọng kèm theo.

Nguyên tắc kế toán cơ bản Ý nghĩa trong mối liên hệ với báo cáo tài chính
Giả định thực thể kinh tế Kế toán viên giữ mọi giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp một chủ tách biệt với những giao dịch cá nhân của chủ doanh nghiệp. Về phương diện các mục đích pháp lý, doanh nghiệp một chủ và chủ sở hữu doanh nghiệp này được được xem là một thực thể, nhưng về mặt kế toán họ được coi là 2 thực thể độc lập.
Giả định đơn vị tiền tệ

Hoạt động kinh tế được tính bằng đồng đô la Mỹ, và chỉ những giao dịch có thể được thể hiện bằng đồng đô la mới được ghi nhận.

Vì nguyên tắc kế toán cơ bản này, người ta giả định rằng mãi lực của đồng đô la không đổi theo thời gian. Do đó các kế toán viên không cần để ý đến tác động của lạm lên số tiền được ghi nhận. Chẳng hạn, đồng đô la từ một giao dịch năm 1960 được tổng hợp (hoặc kết toán với) đồng đô la từ một giao dịch trong năm 2010.

Giả định khoảng thời gian

Nguyên tắc kế toán cơ bản này giả định rằng có thể báo cáo các hoạt động phức tạp và đang diễn ra của doanh nghiệp trong những khoảng thời gian riêng biệt, tương đối ngắn, chẳng hạn kỳ 5 tháng kết thúc vào ngày 31 tháng Năm, 2010, hoặc kỳ 5 tuần kết thúc vào ngày 01 tháng Năm, 2010. Khoảng thời gian càng ngắn, thì dường như yêu cầu kế toán viên phải ước lượng số tiền liên quan đến kỳ đó càng nhiều hơn. Ví dụ, nhận được giấy báo thuế tài sản vào ngày 15 tháng Mười Hai hàng năm. Dựa vào báo cáo thu nhập của kỳ kế toán năm kết thúc ngày 31 tháng Mười Hai, năm 2010, số tiền sẽ được biết chính xác ngay; nhưng đối với báo cáo thu nhập của kỳ 3 tháng kết thúc vào ngày 31 tháng Ba, năm 2010, thì số tiền không được biết chính xác và phải dùng phương pháp ước tính.

Trong từng báo cáo thu nhập, báo cáo vốn góp của cổ đông, và báo cáo lượng tiền mặt nhất thiết phải thể hiện bằng tiêu đề khoảng thời gian (hay kỳ kế toán). Ghi tiêu đề lên một trong những báo cáo tài chính này là "31 tháng Mười Hai" thì vẫn chưa đầy đủ - người đọc cần biết bản báo cáo bao hàm kỳ kế toán một tuần kết thúc vào 31 tháng Mười Hai năm 2010, kỳ kế toán tháng kết thúc vào 31 tháng Mười Hai năm 2010, hay kỳ kế toán năm được kết thúc vào 31 tháng Mười Hai năm 2010.

Nguyên tắc chi phí

Từ góc độ một kế toán viên, thuật ngữ "chi phí" đề cập đến số tiền đã chi (tiền mặt hoặc tài sản tương đương tiền mặt) khi một tài sản bắt đầu được thu về, bất kể việc mua sắm đó xảy ra năm trước hay cách nay 30 năm. Vì lý do này, số tiền được thể hiện trên các báo cáo tài chính được gọi là lượng giá vốn ban đầu.

Vì nguyên tắc kế toán này, số tài sản không được điều chỉnh lên theo lạm phát. Thật ra, theo nguyên tắc chung, số tài sản không được điều chỉnh nhằm phản ánh bất kỳ một dạng gia tăng giá trị nào. Vì vậy, một lượng tài sản không phản ánh số tiền một công ty sẽ thu về nếu họ bán tài sản ấy với giá thị trường hiện tại.(Trừ trường hợp những khoản đầu tư nhất định vào cổ phiếu và trái phiếu mà được giao dịch thường xuyên trên thị trường chứng khoán.) Nếu bạn muốn biết giá trị hiện thời các tài sản dài hạn của công ty thì bạn sẽ khó kiếm được thông tin này trong các báo cáo tài chính của công ty - bạn cần tìm ở chỗ khác, dĩ nhiên đó là một người đánh giá thuộc bên thứ ba.

Nguyên tắc thông tin đầy đủ

Nếu thông tin nhất định nào đó quan trọng đối với một nhà đầu tư hay nhà cho vay sử dụng báo cáo tài chính, thì thông tin đó phải được công khai trong báo cáo hoặc trong các giải trình của báo cáo ấy. Nhờ nguyên tắc kế toán cơ bản này mà rất nhiều tài liệu "chú thích" thường được đính kèm các báo cáo tài chính.

Ví dụ, hãy xét trường một công ty đang kiện tụng mà cần một lượng tiền lớn. Khi các báo cáo tài chính được soạn thảo người ta không rõ công ty sẽ có khả năng tự bảo vệ mình hay sẽ thua kiện. Vì những điều kiện này và nguyên tắc thông tin đầy đủ, vụ kiện tụng kia sẽ được thể hiện trong các giải trình của các báo cáo tài chính.

Một công ty thường liệt kê các chính sách kế toán quan trọng như là nội dung diễn giải đầu tiên trong các báo cáo tài chính của mình.

Nguyên tắc hoạt động liên tục

Nguyên tắc kế toán này giả định rằng một công ty sẽ tiếp tục tồn tại đủ thời gian để thực hiện các mục tiêu và cam kết của mình và không bị phá sản trong tương lai gần. Nếu tình hình tài chính của công ty đến mức mà kế toán viên cho là công ty sẽ không thể tiếp tục hoạt động nổi, thì kế toán viên ấy phải công khai đánh giá này.

Nguyên tắc hoạt động liên tục cho phép công ty hoãn một số chi phí trả trước của mình lại đến những kỳ kế toán sau.

Nguyên tắc tương xứng

Nguyên tắc kế toán này yêu cầu các công ty phải sử dụng cơ sở kế toán phát sinh. Nguyên tắc tương xứng đòi hỏi các chi phí phải phù hợp với với doanh thu. Chẳng hạn, chi phí hoa hồng bán hàng phải được báo cáo trong kỳ kế toán mà việc bán hàng được thực hiện (và không báo cáo trong kỳ mà các khoản hoa hồng được trả). Lương trả cho người lao động được báo cáo như là chi phí trong tuần mà người lao động làm việc và không phải trong tuần mà họ nhận được tiền. Nếu một công ty đồng ý thưởng cho nhân viên của mình 1% thu nhập của mình trong năm 2010 vào ngày 15 tháng Một năm 2011, thì công ty ấy phải báo cáo khoản thưởng kia như là chi phí của năm 2010 và số tiền chưa trả tại thời điểm ngày 31 tháng Mười Hai, năm 2010 được coi là một khoản nợ. (Chi phí phát sinh ngay khi doanh thu xuất hiện.)

Vì chúng ta không thể đo lường những lợi ích kinh tế sẽ diễn ra của những thứ đại loại như là quảng cáo (và do đó chúng ta không thể làm cho chi phí quảng cáo phù hợp với doanh thu trong tương lai hữu quan), nên kế toán viên tính tiền quảng cáo như là chi phí trong kỳ kế toán mà quảng cáo được thực hiện.

Nguyên tắc ghi nhận doanh thu

Theo cơ sở kế toán phát sinh (trái với cơ sở kế toán tiền mặt), các khoản doanh thu được ghi nhận ngay khi một sản phẩm được bán đi hay một dịch vụ đã được cung cấp, không tính đến khi nào tiền thật sự nhận về. Theo nguyên tắc kế toán cơ bản này, một công ty có thể kiếm được và báo cáo 20 ngàn đô la doanh thu trong tháng đầu tiên nó hoạt động dù chưa nhận được đồng tiền mặt nào trong tháng đó.

Ví dụ, nếu một doanh nghiệp tư vấn ABC nào đó hoàn thành việc cung cấp dịch vụ của mình với một mức giá thoả thuận là 1000 đô la, doanh nghiệp ABC phải ghi nhận 1000 đô la doanh thu ấy ngay khi họ cung cấp xong dịch vụ - việc khách hàng thanh toán 1000 đô la ngay hay sau 30 ngày cũng không quan trọng. Đừng nhầm lẫn doanh thu với một biên lai nhận tiền mặt.

Nguyên tắc trọng yếu

Vì nguyên tắc kế toán cơ bản hoặc mang tính định hướng này mà một kế toán viên có thể được phép vi phạm một nguyên tắc kế toán khác nếu số lượng không đáng kể. Cần có đánh giá chuyên môn để quyết định xem một lượng nào đó là không đáng kể hay không quan trọng.

Ví dụ, số tiền mua chiếc máy in 150 đô la của một công ty có mức lợi nhuận cao nhiều triệu đô rõ ràng không đáng kể. Bởi chiếc máy in sẽ được sử dụng trong 5 năm, nguyên tắc tương xứng yêu cầu kế toán viên coi giá tiền đó như là phí tổn của kỳ 5 năm. Nguyên tắc trọng yếu cho phép công ty này bỏ qua nguyên tắc tương xứng và tính chi phí toàn bộ giá tiền 150 đô la vào năm mua chiếc máy. Lý lẽ đưa ra là chẳng có ai coi đó là sai sót nếu 150 đô la được tính là chi phí trong năm đầu tiên thay vì 30 đô la chi phí trong từng năm của kỳ 5 năm dùng chiếc máy.

Vì tính trọng yếu, các báo cáo tài chính thường thể hiện những số tiền được làm tròn đến đồng đô la gần nhất, đến con số hàng ngàn gần nhất, hoặc đến những đồng đô la hàng triệu gần nhất tuỳ thuộc vào quy mô công ty.

Nguyên tắc thận trọng

Nếu một tình huống nảy sinh mà có hai giải pháp lựa chọn có thể chấp nhận được để báo cáo một khoản mục nào đó, thì nguyên tắc thận trọng yêu cầu kế toán viên chọn giải pháp thay thế mà sẽ ít gây tác động đến lợi tức thuần và/hoặc ít ảnh hưởng đến vốn sở hữu. Nguyên tắc thận trọng giúp kế toán viên "xác định được" giải pháp trội hơn giải pháp còn lại. Nó không chỉ dẫn kế toán viên thành người bảo thủ. Các kế toán viên được kỳ vọng là khách quan và không thiên vị.

Nguyên tắc kế toán cơ bản là nguyên tắc thận trọng này hướng dẫn các kế toán viên tiên liệu hoặc trình bày những thiệt hại, mà không cho phép một hành động nào tương tự đối với những thu nhập. Ví dụ, những thiệt hại tiềm năng từ các vụ kiện tụng sẽ được báo cáo trong các báo cáo tài chính hoặc trong các bản giải trình, nhưng những khoản thu tiềm năng thì không được báo cáo. Ngoài ra, một kế toán viên có thể điều chỉnh hàng tồn kho xuống một lượng nào đó thấp hơn giá gốc, nhưng không được ghi tăng lên một lượng cao hơn mức giá gốc ấy.

Những đặc điểm khác của thông tin kế toán

Những đặc điểm khác của thông tin kế toán: Khi các chuyên gia kế toán soạn thảo các báo cáo tài chính, chúng ta có những kỳ vọng nhất định vào những thông tin họ mang đến cho chúng ta:

Chúng ta kỳ vọng thông tin kế toán xác thực, có thể kiểm chứng, và khách quan.

Chúng ta kỳ vọng sự nhất quán trong thông tin kế toán.

Chúng ta kỳ vọng khả năng có thể đối chiếu trong thông tin kế toán.

1. Xác thực, có thể kiểm chứng, và khách quan

Xác thực, có thể kiểm chứng, và khách quan: Ngoài những nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng được liệt kê trong Phần 1, thông tin kế toán phải xác thực, có thể kiểm chứng, và khách quan. Chẳng hạn, thể hiện miếng đất với mức giá gốc của nó là 10 000 đô la (khi mua nó cách nay 50 năm) được coi là chính xác, có thể kiểm chứng, và khách quan hơn là trình bày nó trong báo cáo tài chính với mức giá thị trường gần đây là 250 000 đô la. 8 kế toán viên khác nhau sẽ hoàn toàn đồng ý rằng giá gốc của miếng đất là 10 000 đô la – vì họ có thể đọc phiếu lệnh bán và lệnh chấp nhận mua với giá 10 000 đô la – xem thuế chuyển nhượng được tính dựa trên mức giá 10 000 đô la, và xem xét lại những hồ sơ chứng thực mức giá là 10 000 đô la. Nếu bạn hỏi cũng 8 kế toán viên ấy giá hiện nay của miếng đất, thì có lẽ bạn sẽ nhận được 8 ước lượng khác nhau. Bởi vì lượng giá trị hiện tại ít xác thực, ít có khả năng kiểm chứng, và ít khách quan hơn giá gốc, cái mức giá ban đầu được sử dụng.

Ngành kế toán sẵn sàng thay đổi nguyên tắc chi phí nếu có số lượng hữu quan nào đó xác thực, có thể kiểm chứng và khách quan. Ví dụ, nếu một công ty có một khoản đầu tư vào cổ phiếu mà được giao dịch thường xuyên trên thị trường chứng khoán, thì công ty có thể phải thể hiện giá trị hiện nay của cổ phiếu thay vì giá gốc của nó.

2. Sự nhất quán

Sự nhất quán: Các kế toán viên được kỳ vọng sẽ nhất quán khi áp dụng các nguyên tắc, thủ tục, và thông lệ kế toán. Chẳng hạn, nếu một công ty có thói quen sử dụng giả định luồng chi phí theo phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO), thì người đọc các báo cáo tài chính mới nhất hiện nay của công ty có lý do để kỳ vọng công ty tiếp tục dùng phương pháp này. Nếu công ty thay đổi thói quen và bắt đầu sử dụng giả định luồng chi phí theo phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO), thì sự thay đổi ấy phải được công khai một cách rõ ràng.

3. Khả năng so sánh

Các nhà đầu tư, cho vay, và những người sử dụng khác báo cáo tài chính kỳ vọng các báo cáo tài chính của một công ty có thể đối chiếu được với các báo cáo tài chính của một công ty khác cùng ngành. Những nguyên tắc kế toán tổng quát được thừa nhận có thể chu cấp đầy đủ khả năng so sánh giữa các báo cáo tài chính của các công ty khác nhau. Ví dụ, Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Tài chính ( FASB ) yêu cầu khi có các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển (R&D) thì phải được tính là phí tổn. Trước khi có quy định của FASB, một số công ty khi có chi phí R&D đã tính như là phí tổn ngay, trong khi một số công ty khác lại hoãn tính chi phí R&D vào bảng cân đối kế toán và sau này mới tính chúng như là phí tổn.

Các nguyên tắc cơ bản và mang tính định hướng ảnh hưởng đến các báo cáo tài chính như thế nào?

Các nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng ảnh hưởng trực tiếp đến cách soạn thảo và giải trình các báo cáo tài chính. Hãy xem nội dung bên dưới đây để thấy những nguyên tắc cơ bản và mang tính định hướng ấy ảnh hưởng đến (1) bảng cân đối kế toán, (2) báo cáo thu nhập, và (3) phần diễn giải trong các báo cáo tài chính như thế nào.

1. Bảng cân đối kế toán

Hãy xem các nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng ảnh hưởng ra sao đến bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp Mary's Design Service, một doanh nghiệp tư nhân do Mary Smith sở hữu.

Một bảng cân đối kế toán là một bản kê tài sản, công nợ, và vốn chủ sở hữu của một công ty trong cùng một thời điểm. (Trong trường hợp này, thời điểm được ghi nhận là thời điểm sau mọi giao dịch đến hết ngày 30 tháng Chín, năm 2010). Bởi vì giả định thực thể kinh tế, nên chỉ những tài sản, công nợ và vốn chủ sở hữu được xác nhận một cách rõ ràng là của doanh nghiệp Mary's Design Service mới được thể hiện - những tài sản cá nhân của chủ sở hữu, Mary Smith, thì không có trong bảng cân đối tài khoản của công ty.

Mary's Design Service - Bảng cân đối kế toán
Ngày 30 tháng Chín, 2010
Tài sản     Công nợ  
Tiền mặt $ 300   Các phiếu nợ phải trả $ 1,000
Các khoản nợ phải thu 1,000   Các khoản nợ phải trả 325
Hàng trữ 160   Lương phải trả 75
Bảo hiểm trả trước 90   Doanh thu nhận trước 100
Đất 10,000     Tổng nợ
      Vốn chủ sở hữu  
      Vốn của Ông Smith 10,050
Tổng tài sản $11,550   Tổng nợ và vốn chủ sở hữu $11,550

Tài sản liệt kê trong bảng cân đối kế toán có chi phí có thể đo lường được và mỗi số tiền được thể hiện là chi phí ban đầu của mỗi tài sản. Ví dụ, hãy giả định miếng đất mua năm 1956 với giá 10 000 đô la. Doanh nghiệp Mary's Design Service vẫn sở hữu miếng đất đó, và bây giờ được định giá ở mức 250 000 đô la. Nguyên tắc chi phí yêu cầu miếng đất được thể hiện trong trương mục tài sản là Đất với giá gốc là 10 000 đô la chứ không phải số tiền được định giá gần đây là 250 000 đô la.

Nếu Mary's Design Service muốn mua một miếng đất thứ hai, thì giả định đơn vị tiền tệ yêu cầu giá mua miếng đất hôm nay cần phải được cộng vào giá mua miếng đất năm 1956, và tổng hai giá mua sẽ được báo cáo là tổng chi phí đất đai.

Tài khoản hàng trữ cho thấy chi phí hàng trữ (nếu nguyên vật liệu thể hiện dưới dạng số lượng tiền) được Mary's Design Service thu mua mà chưa dùng. Khi hàng trữ được tiêu thụ, chi phí của chúng sẽ được chuyển sang tài khoản phí tổn nguyên vật liệu trong báo cáo thu nhập. Điều này tuân theo nguyên tắc tương xứng, nguyên tắc yêu cầu mọi chi phí phải phù hợp với doanh thu hoặc với thời kỳ chúng được sử dụng. Chi phí nguyên vật liệu chưa dùng đến vẫn nằm trong tài khoản tài sản Hàng Trữ thuộc bảng cân đối kế toán.

Tài khoản bảo hiểm trả trước thể hiện chi phí bảo hiểm chưa hết hạn. Khi bảo hiểm đáo hạn, chi phí đã tiêu hao được chuyển sang chi phí bảo hiểm trong báo cáo thu nhập theo nguyên tắc tương xứng. Chi phí bảo hiểm chưa đáo hạn vẫn nằm trong tài khoản tài sản Bảo hiểm Trả trước thuộc bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp Mary's Design Service (được "hoãi lại" tại bảng cân đối kế toán). Để chi phí bảo hiểm lại trong bảng cân đối kế toán là hợp lý vì một nguyên tắc kế toán cơ bản khác, đó là giả định hoạt động liên tục.

Nguyên tắc chi phí và giả định đơn vị tiền tệ không cho phép cho một số tài sản giá trị quá cao xuất hiện trong bảng cân đối kế toán của công ty. Chẳng hạn, những công ty bán hàng tiêu dùng có logo, nhãn hiệu, tên thương mại, thương hiệu nổi tiếng thì không được báo cáo trong bảng cân đối kế toán của mình vì chúng không được mua. Ví dụ, logo của Coca-Cola và logo của Nike có thể là những tài sản giá trị nhất của những công ty này, nhưng họ không được liệt kê là tài sản trong bảng cân đối kế toán của công ty. Cũng vậy, một công ty có thể rất nổi danh và sở hữu một đội ngũ quản trị có chuyên môn rất cao, nhưng vì những thứ này không được bán với mức giá cụ thể và chúng ta không thể đo lường chúng một cách khách quan bằng những đồng đô la, nên chúng không được báo cáo là tài sản trong bảng cân đối kế toán. Nếu một công ty thực sự mua nhãn hiệu của công ty khác với một mức giá cụ thể nào đó, thì số tiền mua nhãn hiệu này sẽ được báo cáo như là tài sản trong bảng cân đối kế toán của công ty đã mua nhãn hiệu.

2. Báo cáo thu nhập

Hãy xem các nguyên tắc kế toán cơ bản và mang tính định hướng có thể ảnh hưởng đến báo cáo thu nhập của Mary's Design Service ra sao.

Một báo cáo thu nhập bao trùm một khoảng thời gian, chẳng hạn một năm, quý, tháng, hoặc bốn tuần. Nhất thiết phải thể hiện khoảng thời gian trong tiêu đề của báo cáo thu nhập như "Kỳ 9 tháng kết thúc ngày 30 tháng Chín, năm 2010". (Điều này có nghĩa là trong phạm vi thời gian từ 1 tháng Giêng đến 30 tháng Chín, năm 2010). Nếu báo cáo thu nhập được soạn thảo theo phương pháp kế toán trên cơ sở phát sinh, thì sẽ thể hiện công ty sinh lời như thế nào trong khoảng thời gian xác định đó.

Mary's Design Service - Báo cáo thu nhập
Kỳ 9 tháng kết thúc ngày 30 tháng Chín, năm 2010
Doanh thu và lãi
  Doanh thu $10,000  
  Lãi bán đất 5,000  
   

Tổng doanh thu và lãi

15,000
Chi phí và lỗ
  Chi phí 8,000  
  Lỗ bán máy tính 350  
    Tổng chi phí và lỗ 8,350
Lợi tức thuần $ 6,650

Doanh thu là phí kiếm được trong thời kỳ thể hiện trên tiêu đề. Công nhận doanh thu khi kiếm được chúng thay vì khi tiền mặt nhận được trên thực tế theo nguyên tắc ghi nhận doanh thunguyên tắc tương xứng. (Nguyên tắc tương xứng là nguyên tắc chỉ dẫn kế toán viên theo hướng sử dụng phương pháp kế toán trên cơ sở phát sinh hơn là trên cơ sở tiền mặt. Chủ sở hữu doanh nghiệp nhỏ nên bàn bạc hai phương pháp kế toán này với những nhà tư vấn về thuế của mình.)

Lãi là số tiền thực liên quan đến các giao dịch mà không bị coi là thành phần thuộc các khoản hoạt động chính của công ty. Ví dụ, Mary's Design Service hoạt động chuyên về thiết kế, không phải kinh doanh phát triển đất đai. Nếu công ty bán một số đất lấy 30 000 đô la (đất được thể hiện trong các hồ sơ kế toán của công ty ở mức 25 000 đô la) thì Mary's Design Service sẽ báo cáo Lãi bán đất là 5000 đô la. Giá bán 30 000 đô la sẽ không được báo cáo như là một phần doanh thu của công ty.

Chi phí là những khoản chi được công ty sử dụng hết trong quá trình thực hiện những hoạt động chính của mình. Nguyên tắc tương xứng yêu cầu các khoản chi phí phải được báo cáo trong báo cáo thu nhập khi có doanh số liên quan hoặc khi các khoản chi tiêu được dùng hết (chứ không phải trong kỳ chúng được thanh toán).

Lỗ là số tiền thực liên quan đến các giao dịch mà không bị coi là phần hoạt động kinh doanh chính của công ty. Ví dụ, hãy nói về trường hợp một công ty may mặc bán lẻ có một chiếc máy vi tính cũ được ghi chép trong các chứng từ kế toán với giá 650 đô la. Nếu công ty bán chiếc máy này 300 đô la, công ty nhận một khoản tài sản (300 đô la tiền mặt) nhưng vẫn phải lấy đi 650 đô la khỏi sổ sách kế toán của mình. Kết quả là Lỗ bán máy tính 350 đô la. Giá bán 300 đô la sẽ không có trong doanh số hay doanh thu của công ty.

3. Những nội dung thuyết minh cho báo cáo tài chính

Một nguyên tắc kế toán cơ bản khác, nguyên tắc thông tin đầy đủ, yêu cầu các báo cáo tài chính của công ty phải có những phần diễn giải rõ ràng. Những diễn giải này gồm các thông tin giúp người đọc báo cáo tài chính ra quyết định đầu tư và tín dụng. Phần diễn giải trong báo cáo tài chính được coi là một bộ phận của tổng thể báo cáo tài chính.

Sưu tầm