Tham luận: Đổi mới phương pháp dạy và học theo chương trình tín chỉ

Giảng viên: ThS. Trần Thị Thái Hằng

Đổi mới phương pháp dạy và học theo tín chỉ là chủ đề đã được thảo luận từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, hiểu và thực hiện tốt được vấn đề này không phải là chuyện đơn giản. Việc đổi mới phương pháp dạy và học trở nên cấp bách hơn bao giờ hết đối với các trường đại học nói chung và trường Đại học Đông Á nói riêng khi thực hiện việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Bài tham luận này nhằm trao đổi với các đồng nghiệp một vài kinh nghiệm trong việc giảng dạy khi nhà trường chuyển sang đào tạo theo tín chỉ.

Trước hết, chúng ta hãy đề cập đến việc vì sao phải đổi mới đổi mới phương pháp và đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm mục đích gì? Rõ ràng việc đổi mới phương pháp giảng dạy là một đòi hỏi của thực tế khách quan và không nhằm ngoài mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Nếu chúng ta quan niệm rằng đào tạo cũng là một loại hình dịch vụ trong đó sản phẩm là những con người đáp ứng được những yêu cầu về nhân lực có trình độ cao của xã hội thì rõ ràng sản phẩm của đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố như chương trình đào tạo, môi trường đào tạo, đào tạo các kỹ năng mềm,.. nhưng một điều đóng vai trò quan trọng hàng đầu là phương pháp đào tạo. Có một thực tế là ở Việt Nam, trong các bậc học phổ thông thì khả năng tư duy và trình độ của học sinh Việt Nam không thua kém các nước tiên tiến trên thế giới nhưng lên các bậc học cao hơn ở đại học và sau đại học thì trình độ của sinh viên Việt Nam lại không bằng sinh viên của các nước tiên tiến trên thế giới. Điều đó có rất nhiều nguyên nhân nhưng có một nguyên nhân khá quan trọng là phương pháp giảng dạy của nước ta chủ yếu là đọc giảng, cách truyền thụ kiến thức một chiều dẫn đến phương pháp học tập của sinh viên rất thụ động, không đào tạo và tập cho sinh viên thói quen tự học, tự nghiên cứu và tư duy sáng tạo, một điều cực kỳ quan trọng trong việc phát triển của sinh viên về sau. Như vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học là một đòi hỏi của thực tế khách quan đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội và nguồn nhân lực.

Đối với hình thức tín chỉ hiện nay, một vấn đề thường được giáo viên quan tâm khi dạy theo học chế tín chỉ là thời gian lên lớp. Nhiều thầy cô không khỏi lo lắng khi thấy môn học của mình vẫn dạy rất nhiều tiết trước kia bây giờ chỉ được phép truyền đạt cho sinh viên trong vòng vài chục giờ. Số giờ dành cho thầy dạy lý thuyết và thảo luận khi đào tạo tín chỉ đã giảm nhiều so với khi đào tạo theo học phần niên chế. Liệu chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ khi ra trường có giảm hơn so với trước đây không? Lý thuyết về đào tạo tín chỉ cũng như thực tế việc đào tạo tín chỉ thành công ở một số trường cho phép khẳng định đào tạo tín chỉ không làm giảm mà còn có thể nâng cao chất lượng của sinh viên tốt nghiệp. Một câu hỏi đặt ra là tại sao thời gian lên lớp của thầy giảm đi khá nhiều mà đào tạo theo tín chỉ vẫn có thể tăng chất lượng đào tạo. Vấn đề mấu chốt ở đây là làm sao giúp sinh viên đáp ứng được mục tiêu học tập. Nói cách khác, vấn đề đổi mới dạy học là vấn đề phải quan tâm đặc biệt trong đào tạo tín chỉ.

Theo quy chế đào tạo thì trong học phần-niên chế, để tiếp thu được 1 đơn vị học trình hay 15 tiết tiết chuẩn thì sinh viên cần phải chuẩn bị 15 tiết còn trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ thì sinh viên phải dành 30 tiết cho việc này. Về mặt cơ học mà nói, việc giảm 40% thời lượng trên lớp được bù bằng cách tăng 100% thời lượng học ở nhà của sinh viên. Tuy nhiên, nếu chỉ tư duy đơn giản như vậy mà không nghĩ đến vấn đề đổi mới việc dạy của người thầy thì cũng khó thành công trong đào tạo tín chỉ.

Việc dạy trong đào tạo tín chỉ có gì khác so với cách dạy trước đây? Trong thời gian đào tạo theo học phần niên chế (cũ), người thầy khi lên lớp thường có viên phấn và tập giáo án. Để dạy, người thầy cố gắng truyền lại tất cả những gì mình biết cho trò, còn sinh viên thì có gắng nhớ, cố gắng chép và học những gì thầy cho ghi. Vì không có phương tiện hỗ trợ nghe nhìn như hiện nay, việc minh họa để sinh viên hiểu sâu, hiểu nhanh một vấn đề là rất khó khăn và nhiều khi không thể. Đơn cử 1 ví dụ, nhiều thầy cô đã phải mất đến 10, thậm chí 20 phút để hoàn thành 1 hình vẽ phức tạp trên bảng, thời gian vẽ đã tốn như vậy thì làm sao trong 1 giờ lên lớp, thầy cô có thể trình bày, giải thích nhiều vấn đề. Rõ ràng, dạy theo cách này sẽ có rất nhiều hạn chế về khối lượng và chất lượng truyền đạt. Thêm vào đó, có thể nói người sinh viên đã vô tình tiếp thu một cách thụ động những gì mà thầy cô có. Nói một cách khác, người thầy đã dẫn dắt sinh viên đi trên một cái đích có sẵn.

Nói tóm lại, phương pháp dạy và học niên chế (cũ): Thầy với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, Tự học, tự học cách giảng dạy, Nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu với các đồng nghiệp, thầy giảng trò chép.

Việc đổi mới dạy học trong các trường đại học đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Để nâng cao chất lượng đào tạo làm cơ sở cho việc nâng cao lợi ích cho người lao động, chúng ta không còn con đường nào khác là đổi mới phương pháp dạy học, giúp người học chuyển từ cách học bị động sang cách học chủ động. Điều này không chỉ đơn giản là sử dụng các công cụ trợ giúp giảng dạy như máy tính, máy chiếu mà còn phải thay đổi một cách có kế thừa tư duy trong giảng dạy và tạo ra một môi trường dạy học tích cực và thân thiện.

Về mặt tư duy, điều quan trọng nhất là người thầy phải chỉ ra con đường mà sinh viên sẽ phải đi, cách đi trên con đường đó, còn người sinh viên bắt buộc phải đi trên con đường đó trong suốt quá trình học một học phần. Người thầy cần đi sâu vào bản chất của các khái niệm ban đầu của từng chương, từng bài, nhắc lại những kiến thức là nền tảng để hình thành nên những khái niệm đó. Điều này sẽ làm cho sinh viên định hướng được cái mà họ phải phát triển từ những cái họ đã biết. Hãy giúp cho sinh viên hình dung ra những khái niệm ban đầu là gì? Sau đó, chỉ ra cái đích mà họ phải đi tới, cũng như cách đi thông qua những kiến thức cũ và cuối cùng, họ phải tự tìm, tự học để hiểu được vấn đề cốt lõi của học phần. Một nguyên lý quan trọng là những gì sinh viên tự làm được nên để họ tự làm, tự khám phá. Vì vậy, người thầy cần phải đưa ra những vấn đề đòi hỏi sinh viên phải đầu tư công sức và thời gian để đọc, để tìm hiểu. Nếu người thầy không đặt ra những vấn đề như vậy thì dù cố ép sinh viên họ cũng không bao giờ đọc 1 cuốn sách tham khảo nào cả

Xu hướng hiện đại: Kiến thức rất đa dạng và thay đổi theo thời gian -> Giảng dạy là khai thác và tận dụng nội lực của sinh viên để họ sẽ tự học suốt đời -> Tăng cường những môn học rèn luyện tư duy.

Như vậy với xu hướng mới về phương pháp giảng dạy trong đó quan niệm “học sinh là trung tâm của hệ thống giáo dục” đã làm thay đổi tiêu chí và cánh thức giảng dạy của giảng viên và phương pháp học của sinh viên.

Đầu tiên, chúng ta phải chú trọng đến các tiêu chí cho việc dạy và học ở đại học trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy đó là:

  • Việc dạy cách học, học cách học để tạo thói quen, niềm say mê và khả năng học suốt đời là nội dung bao quát của việc dạy và học ở Đại Học.
  • Lấy người học làm trung tâm hoặc hướng vào người học (learner centered) để phát huy tính chủ động của người học.
  • Công nghệ thông tin, truyền thông và các thiết bị, phương tiện giảng dạy hiện đại có thể giúp con người chọn nhập và xử lý thông tin nhanh chóng để biến thành tri thức.

Từ các tiêu chí trên. Chúng ta thấy rằng vai trò của người thấy đã thay đổi trong đó yêu cầu:

  • Nhà giáo Đại học hiện nay không còn là người đơn thuần truyền thụ kiến thức mà là người hướng dẫn, hỗ trợ và tư vấn cho sinh viên tìm chọn và xử lý thông tin. Do đó người thầy phải nắm bắt được nhu cầu của người học và tổ chức để họ quản lý được thời gian của mình, có tính đến sự khác biệt cá thể, đồng thời động viên họ tích cực tham gia vào quá trình nâng cao năng lực nhận thức và tư duy, chỉ dẫn và giúp đỡ họ phát triển các kỹ năng học tập độc lập như tự quyết định mục tiêu của bản thân, tự tìm kiếm và xử lý thông tin, tự đánh giá năng lực và chất lượng học tập của mình ... để sản phẩm đào tạo của đại học có thể là những thực thể tiếp tục phát triển sau khi tốt nghiệp và suốt đời.
  • Vị trí của nhà giáo đại học không phải được xác định bằng sự độc quyền về thông tin và tri thức có tính đẳng cấp, mà bằng trí tuệ và sự từng trải của mình trong quá trình dẫn dắt SV tự học.
  • Điểm cơ bản và quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy-học đại học hiệu quả là người thấy nêu vấn đề và phát huy tối đa khả năng tự học và tư duy độc lập của sinh viên. Các cách dạy học theo lối truyền thống truyền đạt - lĩnh hội cần được thay đổi bằng những cách làm mới cùng với sự hỗ trợ của phương tiện mới hiện đại.
  • Luôn liên hệ với thực tiễn đang thay đổi.
  • Làm cho SV biết hợp tác và chia sẻ.
  • Tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học
  • Nghiên cứu khoa học cũng là một yêu cầu đối với giảng viên và đồng thời nó khẳng định “tính đại học”, là thành tố không thể thiếu trong việc hình thành phương pháp dạy-học mới trong các trường đại học, giúp thầy tìm kiếm, phát hiện, giúp trò gắn học với hành, phát triển tư duy logic và rèn luyện phương pháp luận sáng tạo. Dựa trên những định hướng nghiên cứu lớn của từng trường, mỗi giảng viên phải xây dựng cho mình một hướng đề tài nghiên cứu lâu dài, trên cơ sở đó xác định kế hoạch nghiên cứu khoa học cho từng thời kỳ. Có thể huy động những khả năng to lớn của sinh viên vào việc cùng thực hiện từng phần của đề tài. Nghiên cứu khoa cũng chính là phương thức hiệu quả nhất để thầy có thể nâng cao chất lượng chuyên môn của mình.

Một vấn đề cũng rất quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học là: đổi mới cách dạy thì phải đổi mới cách học. Nhiều sinh viên hiện nay thụ động trong học tập:

  • Không tìm tòi thông tin mở rộng kiến thức chuyên môn của mình
  • Không phát huy hết tiềm năng của các phương tiện học tập
  • Không vận dụng các phương pháp sáng tạo trong học tập
  • Trước yêu cầu cầu việc đổi mới phương pháp dạy học thì sinh viên cũng phải thay đổi cách học theo hướng:
  • Học cách thức đi tới sự hiểu biết. Coi trọng sự khám phá và khai phá trong học thuật.
  • Học kỹ năng thực hành và thái độ thực tiễn trong nghề nghiệp.
  • Học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động. Biết mềm hoá tư duy và tuỳ cơ ứng biến.
  • Học phương pháp nghiên cứu đi từ phân tích đối tượng và mô trường để tìm giải pháp đồng bộ giải quyết những tình huống đa chiều.
  • Phải sử dụng các thiết bị nghe nhìn hiện đại như USB, kim từ điển, mày nghe nhạc, PC Pocket…để hỗ trợ học tập

Một điều khá thuận lợi trong việc đổi mới phương pháp dạy và học đại học là theo "Đề án đổi mới giáo dục ĐH Việt Nam" từ 3 đến 5 năm tới chuyển các cơ sở giáo dục Đại Học đang đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ (HCTC).

  • Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo trong đó sinh viên chủ động lựa chọn từng môn học theo một số ràng buộc qui định trước nhằm tích lũy từng phần và tiến tới hoàn tất toàn bộ chương trình đào tạo để được cấp bằng tốt nghiệp.
  • Học chế tín chỉ cũng tạo điều kiện tối đa để cá nhân hóa qui trình đào tạo, trao quyền chủ động cho sinh viên trong việc đăng ký sắp xếp lịch học, việc tích lũy tín chỉ theo các môn học, kể cả sắp xếp thời gian học ở trường, thời gian tốt nghiệp...
  • Như vậy việc áp dụng học chế tín chỉ ở các trường đại học là để đáp ứng nhu cầu chủ động của sinh viên trong học tập, và cũng đòi hỏi tính chủ động rất cao của sinh viên trong việc lập kế hoạch dự kiến đăng ký các môn học, chọn lựa môn học ngay từ đầu cho cả chương trình học bốn hay năm năm. Sinh viên phải chủ động tìm hiểu đề cương các môn học, rồi theo đó mà chuẩn bị đọc tài liệu trước giờ học, tích cực chủ động tham gia thảo luận trong lớp, cũng như làm bài tập, viết tiểu luận, làm dự án ở nhà...
  • Việc áp dụng học chế tín chỉ không những đòi hỏi những thay đổi về phía nhà trường, về phía giảng viên mà còn đòi hỏi những thay đổi rất lớn về phía người sinh viên, đặc biệt là tính chủ động rất cao của sinh viên

Như vậy việc chuyển từ học tập theo học chế sang học chế tín chỉ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và động lực không nhỏ trong việc đổi mới phương pháp dạy - học. Đại học Huế cũng đã bước sang năm thứ hai đào tạo theo học chế tín chỉ. Tuy còn một số bất cập nhưng cũng đã thu được các tín hiệu khả quan nhất là việc thúc đẩy các bộ và sinh viên đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập.

Một điều đáng quan tâm nữa là đổi mới phương pháp dạy đại học phải đi đôi với việc đổi mới cách thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Trước đây cánh thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên chỉ chú trọng vào kết quả kỳ thi cuối khóa và việc đánh giá chỉ chú trọng đến kiến thức chứ chưa chú trọng đến việc phát huy tư duy, khả năng sáng tạo, khả năng làm việc nhóm, ..Trong bối cảnh mới, với việc đổi mới phương pháp dạy học, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần thiết phải đổi mới theo hướng nhà trường và giảng viên có thể sử dụng các loại kiểm tra khác nhau trong đánh giá quá trình đã được sử dụng ở các đại học nước ngoài như kiểm tra ngắn, kiểm tra đột xuất, bài tập làm ở nhà, dự án hay đồ án thiết kế, báo cáo nghiên cứu khoa học, tiểu luận, thi giữa học kỳ... Về nội dung thì các bài kiểm tra đánh giá này nên được tăng cường các phần thuộc loại nhận thức bậc cao trong bảng xếp loại Bloom như: áp dụng, phân tích, tổng hợp, và thẩm định. Cách kiểm tra đánh giá này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu, phân tích giải quyết vấn đề một cách thường xuyên trong quá trình học tập, và sẽ chấm dứt tình trạng học vẹt, học tủ, hay dùng phao để gian lận thi cử. Khi đó giảng viên sẽ khuyến khích sinh viên tham khảo nhiều tài liệu khi làm bài ở nhà, có thể cho sinh viên hợp tác theo nhóm, và có thể cho sinh viên sử dụng tài liệu trong các kỳ thi giữa học kỳ và cuối khóa.

Như vậy, đổi mới phương pháp dạy-học là một yêu cầu khách quan của thực tế vừa là động lực phát triển, đòi hỏi mỗi thầy giáo nhận thức sâu sắc được vai trò và trách nhiệm tích cực tham gia vào quá trình đổi mới ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải thay đổi vai trò, cách học cho phù hợp. Nó cũng đặt ra cho những nhà quản lý những yêu cầu mới trong việc trang bị cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học, đánh giá xếp loại sinh viên, giảng viên,… Đây là nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng chính là lương tâm của của mỗi chúng ta trước những thử thách to lớn trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.