Dù có vai trò quan trọng trong việc giúp nhà quản trị kiểm soát, quản lý, sử dụng chi phí một cách hiệu quả song đến nay công tác kế toán quản trị vẫn chưa được chủ doanh nghiệp quan tâm nhiều. Công tác này hiện chỉ đáp ứng được các yêu cầu của kế toán tài chính mà chưa có vai trò trong việc cung cấp thông tin. Điều này được thể hiện rõ qua thực tiễn của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ tại Bình Định.
Công tác kế toán quản trị vẫn chưa được chủ doanh nghiệp quan tâm nhiều.
Bộ máy kế toán doanh nghiệp
Bộ máy kế toán trong các doanh nghiệp (DN) sản xuất đồ gỗ ở Bình Định hiện nay được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Số lượng nhân viên kế toán khoảng từ 3 - 12 người tuỳ theo quy mô của DN, trong đó mỗi nhân viên kế toán được phân công phụ trách một phần hành cụ thể. Hầu hết các DN sản xuất đồ gỗ hiện nay đều tổ chức công tác kế toán theo mô hình tập trung.
Tại các chi nhánh tiêu thụ hay các khu vực sản xuất, DN chỉ bố trí các nhân viên kế toán hoặc nhân viên thống kê để tập hợp các chứng từ vào các bảng kê chi tiết rồi chuyển các chứng từ và bảng kê đó cho phòng kế toán trung tâm để xử lý. Hình thức kế toán áp dụng tại các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định hiện nay rất đa dạng, bao gồm cả hình thức chứng từ ghi sổ (52%), hình thức nhật ký sổ cái (29%) và hình thức nhật ký chung (19%). Công tác kế toán tại các DN hiện hầu hết đều được thực hiện trên các phần mềm kế toán với hệ thống sổ kế toán có những vận dụng linh hoạt cho từng đơn vị và vẫn dựa trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức sổ kế toán theo quy định.
Phân loại chi phí kinh doanh
Kế toán tại các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định thường phân loại chi phí theo tính chất ban đầu (phân loại theo yếu tố) của chi phí. Với cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh trong các DN chế biến đồ gỗ bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Là các hao phí về nguyên liệu, vật liệu sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm đồ gỗ. Nguyên liệu chính để sản xuất chế biến các sản phẩm là gỗ các loại trong khi vật liệu lại rất đa dạng (hơn 100 loại) và cũng tùy thuộc vào loại sản phẩm sản xuất.
- Chi phí nhân công: Là chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương cho các đối tượng lao động trực tiếp tại các phân xưởng sản xuất cũng như bộ phận nhân viên làm việc tại các phòng ban chức năng của DN.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là chi phí khấu hao thiết bị sản xuất, nhà xưởng, thiết bị văn phòng, nhà văn phòng, phương tiện vận tải, thiết bị nghiên cứu… của DN. Các tài sản cố định của DN chế biến đồ gỗ cũng rất phong phú với các thiết bị sản xuất đặc thù cho ngành chế biến đồ gỗ và ngày càng có giá trị lớn với thời gian trích khấu hao khác nhau.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí mua các loại dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh (điện, nước, điện thoại, quảng cáo...).
- Chi phí khác bằng tiền: Là các khoản chi phí chưa tính vào các yếu tố trên.
Kế toán quản trị trong việc kiểm tra, đánh giá
Kiểm soát doanh thu:
Để phản ánh doanh thu trên cơ sở các chứng từ kế toán được lập như: Hóa đơn giá trị gia tăng, hóa đơn bán hàng... các DN sử dụng tài khoản 511 - doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Nhìn chung trong thực tế các DN chế biến gỗ tại Bình Định đều theo dõi doanh thu theo thị trường như: nội địa, xuất khẩu. Một số đơn vị còn kiểm soát doanh thu chi tiết theo khu vực như: châu Âu, châu Mỹ, châu Á...
Kiểm soát chi phí sản xuất kinh doanh:
Để đơn giản cho quá trình theo dõi, kế toán và tập hợp chi phí sản xuất, các DN chế biến gỗ Bình Định thường xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp là toàn phân xưởng sản xuất. Cũng chính vì lý do này, đối tượng tính giá thành thường được xác định là khối lượng (m3) gỗ tinh chế cấu thành trong sản phẩm hoàn thành. Phần lớn các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định đều xác định kỳ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là năm, tuy nhiên có một số DN có kỳ tính giá thành theo quý. Tuy nhiên, giá thành xác định theo quý chỉ được xác định tạm thời để xác định kết quả kinh doanh làm căn cứ tính quỹ lương quý sau của đơn vị, khi kết thúc kỳ kế toán các DN đều xác định lại giá thành sản phẩm để kết chuyển giá vốn trong năm báo cáo.
Kế toán chi phí sản xuất:
- Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Việc theo dõi khoản chi phí nguyên liệu gỗ ở các DN chế biến đồ gỗ đều được tiến hành khá chặt chẽ và chi tiết, với việc theo dõi chi tiết cho từng loại nguyên liệu gỗ, theo từng nguồn gốc mua vào (nhập khẩu hay mua nội địa), được xuất dùng cho từng đơn hàng và khai báo với cơ quan hải quan thông quan và xác định các nghĩa vụ thu nộp ngân sách nhà nước...
- Kế toán chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí nhân công trực tiếp tại các DN chế biến đồ gỗ bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương phải trả cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất tại các phân xưởng. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp tại các DN chế biến đồ gỗ thường được tiến hành chi tiết cho từng phân xưởng song các DN có căn cứ kế toán khác nhau. Có một số ít DN không tiến hành theo dõi trực tiếp chi phí nhân công trực tiếp cho từng phân xưởng mà tiến hành tập hợp trên phạm vi toàn phân xưởng (các DN có quy mô nhỏ, thường là các DN vệ tinh cho các DN lớn).
- Kế toán chi phí sản xuất chung: Tại các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định, chi phí sản xuất chung thường được tập hợp theo toàn phân xưởng sản xuất, sau đó tổng chi phí sản xuất chung của phân xưởng sẽ được phân bổ cho từng loại sản phẩm sản xuất hoặc từng nhóm sản phẩm sản xuất (cùng loại gỗ) trong kỳ theo chi phí nguyên liệu gỗ tiêu hao của từng loại sản phẩm hoặc từng nhóm sản phẩm. Chi phí sản xuất chung không được theo dõi tách biệt giữa chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi.
- Tổng hợp chi phí sản xuất: Cuối mỗi kỳ kế toán chi phí và tính giá thành (thường là năm), toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm phát sinh trong kỳ đều được tổng hợp vào tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tất cả các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định đều không mở chi tiết tài khoản 154 theo từng sản phẩm mà tổng hợp toàn đơn vị.
Tổ chức công tác kế toán quản trị
Hiện nay, ở tất cả các DN sản xuất đồ gỗ ở Bình Định, công tác kế toán quản trị đều được tổ chức thực hiện một cách kiêm nhiệm, hầu như các thông tin về kế toán quản trị đều được cung cấp từ thông tin kế toán tài chính theo yêu cầu của nhà quản trị. Mô hình tổ chức công tác kế toán quản trị chi phí đang sử dụng đều là mô hình kết hợp.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả, bộ máy kế toán của các DN này được xây dựng chủ yếu tập trung vào công tác thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin của kế toán tài chính cho việc tổng hợp mà chưa có bộ phận riêng phục vụ cho yêu cầu quản trị và phân tích hoạt động kinh doanh.
Hiện nay các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định đã tiến hành phân loại chi phí kinh doanh theo yếu tố ban đầu và theo chức năng hoạt động của chi phí. Việc sắp xếp chi phí của DN thành các khoản mục chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN và chi tiết các khoản mục chi phí này theo các yếu tố đã đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin của kế toán tài chính về các chỉ tiêu giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN trên báo cáo kết quả kinh doanh; chỉ tiêu hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán và thông tin về các yếu tố chi phí trên thuyết minh báo cáo tài chính.
Tất cả các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định hiện nay đều xác định giá thành sản xuất sản phẩm theo phương pháp xác định chi phí thực tế, là sự kết hợp của hai phương pháp kế toán chi phí theo công việc và theo quá trình sản xuất. Các DN đều cố gắng theo dõi các chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp cho từng loại sản phẩm hoặc từng đơn hàng sản xuất trong kỳ.
Tuy nhiên, với thời điểm tính giá thành thường là vào cuối năm, hầu hết các DN đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ bằng phương pháp ước lượng sản phẩm hoàn thành theo cách tính bình quân. Dù có những ưu điểm như đơn giản, tốn kém ít chi phí của hệ thống kế toán và đáp ứng được các yêu cầu của hệ thống kế toán tài chính, song vẫn không ít hạn chế cần khắc phục, cụ thể:
Thứ nhất, về phân loại chi phí: Xét trên góc độ kế toán quản trị, các cách phân loại chi phí hiện nay trong các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định về cơ bản chưa đáp ứng được các yêu cầu cung cấp thông tin của quản trị nội bộ. Chi phí sản xuất kinh doanh trong đơn vị sản xuất, chế biến gỗ Bình Định mới chỉ được phân loại để phục vụ cho kế toán tài chính. Nhận diện, phân tích các hoạt động làm phát sinh ra chi phí mới là điểm mấu chốt để có thể quản lý tốt chi phí. Do vậy, các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định hiện nay cần quan tâm tới các cách phân loại chi phí khác như phân loại theo mối quan hệ với mức độ hoạt động thành các chi phí biến đổi và chi phí cố định để phục vụ cho mục đích xem xét việc thay đổi của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi, từ đó cung cấp thông tin thích hợp cho nhà quản trị trong quản lý, lập dự toán và kiểm soát chi phí một cách hữu hiệu...
Thứ hai, về công tác kiểm soát doanh thu, chi phí: Hiện nay các DN sản xuất, chế biến gỗ vẫn chưa theo dõi doanh thu chi tiết cho từng mặt hàng cũng như không có DN nào áp dụng phương pháp chi phí thông thường hay chi phí tiêu chuẩn để xác định giá thành sản xuất sản phẩm. Chưa có DN nào xác định giá thành sản phẩm theo phương pháp trực tiếp. Thực tế này xuất phát từ thói quen thực hiện công tác kế toán hiện nay trong hầu hết các DN là chỉ cố gắng tuân thủ theo những quy định của chế độ kế toán tài chính, không quan tâm tới các mục tiêu khác của hệ thống kế toán nói chung và hệ thống kế toán chi phí nói riêng. Do vậy, việc kiểm soát doanh thu, chi phí hiện tại của các DN chế biến đồ gỗ ở Bình Định mới chỉ đáp ứng yêu cầu lập các báo cáo tài chính, chưa đáp ứng yêu cầu của kế toán quản trị nội bộ. Việc không xác định đối tượng kế toán chi phí và tính giá thành theo từng đơn đặt hàng là chưa hợp lý...
Thứ ba, về lập dự toán: Hiện nay không có DN chế biến đồ gỗ nào tiến hành lập dự toán với đúng nội dung và vai trò của nó. Hiện, không có DN nào chuyển đổi các định mức vật tư - kỹ thuật đang được thực hiện một cách chặt chẽ trong đơn vị mình thành các chi phí định mức hay chi phí dự toán. Bên cạnh đó, cũng chưa có DN nào dựa vào các số liệu thống kê về chi phí của DN mình để tìm hiểu về “cách ứng xử” của chi phí đối với mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Các dự toán còn nằm ở dạng kế hoạch dưới dạng dự toán tĩnh chưa phải dự toán linh hoạt nên khó đưa ra quyết định kinh doanh trong điều kiện thị trường thay đổi.
Thứ tư, về tổ chức công tác kế toán quản trị: Việc tổ chức công tác kế toán quản trị chưa được các nhà quản trị ở các DN chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh Bình Định quan tâm. Rất nhiều DN hiện chưa tổ chức công tác kế toán nói chung một cách quy củ, chưa sử dụng đầy đủ các chứng từ cần thiết để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh cho đúng với tính chất và nội dung của nghiệp vụ cũng như yêu cầu quản lý... Đặc biệt, ở các DN nhỏ, hệ thống kế toán rất manh mún, việc ghi chép các số liệu phát sinh gần như mang tính ghi chép, không có logic trong chuẩn mực kế toán khiến cho hầu như báo cáo tài chính của những DN dạng này không có ý nghĩa tham khảo. Với những DN thuê dịch vụ kế toán thì việc ghi chép chính xác và đúng quy định nhưng thông tin kế toán không đáp ứng tính kịp thời do thông thường, các kế toán dạng này chỉ nhận chứng từ vào cuối ngày hoặc cuối tháng để tổng hợp, báo cáo tài chính của các DN này chưa đáp ứng được thông tin như công nợ, tồn kho…
Tài liệu tham khảo:
1. PGS., TS. Phạm Văn Dược, TS. Huỳnh Lợi (2009), Mô hình và Cơ chế vận hành Kế toán quản trị, NXB Tài chính;
2. Khoa Kế toán – Kiểm toán, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2011), Kế toán quản trị, NXB Lao động;
3. Sở Công Thương Bình Định, Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp chế biến gỗ tinh chế trên địa bàn Tỉnh.
Nguồn tin: Khoa Kế toán - Tài chính(Sưu tầm)